Page 125 - http://tvs.vsl.vn/trienlam
P. 125

1
                  thông qua tục ngữ . Phải thừa nhận rằng tục ngữ                                     tuân theo chủ nghĩa nhân đạo xuất phát từ quan
                  hay nói đến tiền bạc nhưng tiền bạc ở đây chỉ là                                    niệm sâu rễ, bền gốc, quan niệm phúc, đức... Nếu
                  một biểu hiện của ứng xử mà thôi. Điều này hoàn                                     không  lý  giải  như thế,  làm sao  có  thể  giải  thích
                  toàn được minh chứng qua cách sử dụng tiền bạc                                      được sự tồn tại của các câu tục ngữ: "người ta là
                  của  người  Việt  trong  các  buổi  lễ  lạt,  đám  cưới,                            hoa của đất; người sống đống vàng; người làm ra
                  đám ma, các ngày vui, Yến lão v.v... Tục ngữ nói                                    của, của không làm ra người; bà con vì tổ vì tiên,
                  đến tiền bạc như một cái gì xấu xa, một sự biểu                                     không  phải  vì  tiền  vì  gạo".  Những  câu  tục  ngữ
                  hiện  của  nhân  tình  thế  thái  đồng  thời  có  ngụ  ý                            mang một quan niệm nhân thế bi quan của người
                  phê phán rõ rệt. Ví dụ: Mạnh vì gạo, bạo vì tiền;                                   Việt chính là biểu hiện của sự ứng xử mang tính
                  Nén bạc đâm toạc tờ giấy; Có tiền mua tiên cũng                                     thực  tiễn.  Một  mặt,  nó  biểu  hiện  nhân  tình  thế

                  được; Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, v.v..                                   thái, có ngụ ý phê phán rõ rệt; mặt khác, nó dạy
                     Tục  ngữ  cũng  nói  đến  sự  xấu  xa  trong  tính                               con người ta liệu bề mà xử thế.
                  cách con người khi ứng xử trong cộng đồng. Ví dụ:                                     Nhìn chung, có thể thấy sự ứng xử của người
                  Bè ai nấy chống, khi vui thì vỗ tay vào; bé xé ra                                   Việt  rất  linh  hoạt:  từ  cách  chào  hỏi,  xử  thế  đến
                  to; đâm bị thóc, chọc bị gạo; đèn nhà ai nhà nấy                                    cách  nhìn  nhận  vấn  đề  trong  trạng  thái  động,
                                                                                                      biện chứng.
                  rạng;  đỉa  bám  chân  ai  người  nấy  gỡ;  cháy  nhà
                                                                                                        Ví dụ: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Gần mực
                  hàng xóm bình chân như vại; tham bát bỏ mâm;
                                                                                                      thì đen, gần đèn thì rạng; Đói ăn vụng, túng làm
                  bắt cá hai tay; không ăn thì đạp đổ, v.v.. Có thể
                                                                                                      càn; Cùng quá, hóa liều, v.v..
                  thấy đây như là một quan niệm nhân thế bi quan,
                                                                                                        Xuất  phát  từ  cách  nhìn  nhận  ấy  mà  phương
                  tiêu cực, thờ ơ, ích kỷ, khuyên người ta hoài nghi,
                                                                                                      châm xử thế của họ có tình có nghĩa, lấy cái thiện
                  cảnh giác với tất cả mọi người hay không? Thông
                                                                                                      làm gốc. Cái thiện này không phải chỉ xuất phát
                  qua văn học thành văn và bất thành văn qua các
                                                                                                      từ quan niệm về điều thiện của đạo Phật mà từ
                  lễ tục, hội làng..., có thể thấy trong ứng xử, người                                quan  niệm  phúc  đức,  do  cuộc  sống  ở  một  xã  hội
                  Việt rất coi trọng giá trị con người và bao giờ cũng                                tiểu nông, phải chịu rất nhiều biến động của lịch
                                                                                                      sử  tạo  nên.  Người  Việt  cho  rằng  "cứu  được  một
                  ___________
                                                                                                      người phúc đẳng hà sa"; "dĩ đức báo oán" (lấy đức
                     1.  Xem  Đỗ  Minh  Tuấn:  Những  đặc  điểm  trong
                  phương thức ứng xử của người Việt qua tục ngữ, Tạp                                  mà xử với kẻ xấu) và phê phán những kẻ "bất cận
                  chí Sưu tầm dân tộc học, 1981.                                                      nhân tình"; "qua cầu rút ván".


                                                                 123                                  124
   120   121   122   123   124   125   126   127   128   129   130