Page 117 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 117
Ngày 18/10/1946, Cao ủy D’Argenlieu đánh điện xin gặp Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người nhận lời nên cho phép tàu ghé qua vùng vịnh Cam Ranh. Hai bên
đã trao đổi về việc thi hành bản Tạm ước và chuẩn bị cho cuộc đàm phán vào
tháng 1/1947 tới. Bác sĩ Trần Hữu Tước kể lại: Trong khi ăn tiệc trên chiến hạm
Suffren ở vịnh Cam Ranh, Bác ngồi giữa, một bên là viên Đô đốc Hải quân Thái
Bình Dương, một bên là viên Thống soái Lục quân Pháp ở Viễn Đông.
D’Argenlieu vừa cười vừa nói với giọng lưỡi giễu cợt: “Chủ tịch đang bị đóng
khung giữa lục quân và hải quân đó”; y cố tình nói chậm, kiểu nhát gừng và
nhấn mạnh từng tiếng “đang bị” “đóng khung” rồi chúng nhìn nhau khoái chí.
Bác thản nhiên mỉm cười và ứng đối ngay: “Nhưng mà, Đô đốc biết đó, chính
bức họa mới đem lại giá trị cho chiếc khung…”. Với tài ứng đối của Bác, cả bọn
tướng Pháp cáo già bị một vố bất ngờ, lịm đi và từ đó bọn chúng không dám giở
1
trò chơi chữ với Bác . 16 giờ ngày 20/10/1946, tàu Dumont D’Urville đã vào
cửa sông Cấm (Hải Phòng) trong sự đón tiếp đầy vui mừng và cảm động của
quần chúng nhân dân. Trước khi rời chiến hạm, Người chân thành cảm ơn Hạm
trưởng và đoàn thủy thủ đã tận tình giúp đỡ Người trong cuộc hành trình dài
ngày trên biển, mở tiệc chiêu đãi đoàn và mời họ lên thăm Hà Nội. Theo sự giới
thiệu của Người, đoàn thủy thủ đi đến đâu cũng được nhân dân quý mến, tạo
điều kiện… Sự cảm hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho Hạm trưởng
Oneill thức tỉnh, ông tỏ thái độ phản đối âm mưu và hành động chuẩn bị chiến
tranh của thực dân Pháp hiếu chiến và sau này chính Oneill đã từ chối chức vụ
chỉ huy trưởng Hải quân Pháp ở khu vực Hải Phòng để trở về Pháp.
Miền Bắc được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ít có dịp đi xa ra nước
ngoài. Nhưng với tầm nhìn của một lãnh tụ dày dạn kinh nghiệm và một người
am hiểu tinh tường về vai trò và vị trí của cảng, biển, với một bờ biển dài suốt
3.260 km như Việt Nam, Người rất quan tâm đến sự phát triển của cảng biển và
của ngành hàng hải nói chung, đặc biệt đối với cảng Hải Phòng là cửa ngõ lớn
nhất của miền Bắc.
Chỉ một ngày sau khi tiếp quản Cảng Hải Phòng (14/5/1955), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Hải Phòng. Điều đầu tiên, Người căn
dặn công nhân và đồng bào Hải Phòng phải cố gắng nhanh chóng khôi phục
lại đời sống bình thường. Anh em công nhân phải bảo vệ hải cảng, kho tàng
và nâng cao năng suất lao động. Ngày 02/6/1955, Người về thăm Hải Phòng
chỉ rõ những khó khăn và hướng đi lên của một thành phố cảng. Từ đó Hải
Phòng đã thực sự trở thành chiếc nôi cho sự ra đời và phát triển của ngành
vận tải biển ở Việt Nam. Bác đặc biệt lưu ý đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ,
nhân viên phục vụ công tác vận tải biển như thuyền trưởng, hoa tiêu, thợ máy,
__________
1. Trần Xuân Nhơn, Bác Hồ trong lòng đội ngũ công nhân và thủy thủ hàng hải Việt Nam, Nxb.
Hải Phòng, 1992, tr. 63.
115