Page 127 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 127

giáo viên có hướng dẫn rằng, muốn thoát ra khỏi                                      máy trưởng; Nguyễn Văn Vinh,  Lê Văn Lương,
                 vòng xoáy của bão, tàu phải cưỡi lên đầu sóng. Tôi                                   thợ máy; Hiệp Rỗ, báo vụ 1; Bùi Văn Tư, báo vụ 2;
                 báo cáo với thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng ý ấy.                                      Nguyễn Văn Tạo, thủy thủ trưởng; Lê Công  Ở,
                 Vậy là hai thầy trò cứ điều khiển tàu gối lên đầu                                    Nguyễn Văn Thuận, Đinh Công Sự, Lê Văn Mùi,
                 sóng mà đi. Tàu trọng tải 100 tấn, chỉ 20 tấn củi                                    Nguyễn Văn Hạc, Lưu Đình Lừng, thủy thủ; Bùi
                 đước chất lên, không đủ đằm, nên càng lắc, càng                                      Khắc Thông, y tá. Mỗi người được trang bị ba bộ
                 chòng chành. Sóng hất tàu lên  cao rồi  đột ngột                                     quần áo gồm com lê, quần áo bà ba và quần áo
                 dìm sâu xuống, kêu răng rắc, như thể sắp gẫy...                                      xanh kiểu công  nhân.  Đây là  chuyến  đi khá dài
                 Giữa trùng khơi mênh mông, con tàu chẳng khác                                        ngày, đi xa bờ, việc xác định vị  trí tàu phải dựa
                 chiếc lá tre nhỏ bé. Có lúc chúng tôi tưởng tàu bị                                   vào mặt trăng, mặt trời và các vì sao... Chuyến đi
                 lật, hoặc va vào đá ngầm quanh đảo, và thú thật,                                     thành công của tàu 42 giai đoạn đó được Bộ Chính
                 đã thoáng nghĩ  đến cái chết... Nhưng mọi sự rồi                                     trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh Hải quân
                 cũng qua. Sau hơn sáu mươi giờ đồng hồ không ăn                                      đánh giá rất cao. Các mốc thời gian tháng 3 năm
                 không ngủ chống chọi, vật lộn với sóng dữ, chúng                                     1966, tháng 12 năm  1966, tháng 8 năm 1969,
                 tôi  đưa  được tàu về căn cứ của  Đoàn  ở  đảo Hải                                   tháng 12 năm 1969, rồi tháng 8 năm 1970, tháng 10
                 Nam. Tiếc là, vì không  được  ăn uống trong ba                                       năm 1970,... tàu 42 tiếp tục chở vũ khí lên đường
                 ngày đó, con rái cá không chịu đựng nổi, đã từ giã                                   và đều hoàn thành nhiệm vụ một các xuất sắc...
                 chúng tôi. Tiếc vô cùng!                                                                 Thượng tá Lưu  Đình Lừng vốn là thủy thủ
                     Anh Vũ Trung Tính kể tiếp:                                                       trên tàu 42, kể:
                     - Trong  tất cả các chuyến tôi tham gia, thì                                         - Tháng 10, tàu 42  được cải dạng xong. Tàu
                 chuyến đi mở đường sau “sự kiện Vũng Rô” năm                                         sơn màu ngọc bích trông giống như một chiếc tàu
                 1965 là đáng nhớ nhất, và có ý nghĩa nhất. Sau ba                                    cá của các nước khu vực Đông Nam Á. Đầu tháng,
                 tháng chuẩn bị về nhiều mặt, trong  đó có  việc                                      được lệnh xuống hàng. Hàng lấy  ở cầu  Đá Bạc
                 củng cố lại nhân sự trên tàu, chúng tôi được lệnh                                    (Hải Phòng).  Đêm 15 tháng 10  năm 1965, tàu
                 lên đường. Tôi nhớ chuyến đi đó, trên tàu có các                                     xuất phát do thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng và
                 thành viên: Anh Nguyễn Văn Cứng, thuyền                                              chính trị viên Trần Ngọc  Ẩn chỉ huy. Dịp này
                 trưởng; Trần Ngọc Ẩn, chính trị viên; Nguyễn Văn                                     đang thời kỳ gió mùa Đông Bắc. Những con sóng
                 Thanh, thuyền phó; tôi, Vũ Trung Tính, hàng hải                                      chồm cao và gió thổi hun hút. Con tàu chao lắc
                 số 1; Lê Thái Sơn, hàng hải số 2; Thôi Văn Nam,                                      như đưa võng. Nhiều ngày chống chọi với sóng gió,


                                                                 125                                  126
   122   123   124   125   126   127   128   129   130   131   132