Page 128 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 128

giáo viên có hướng dẫn rằng, muốn thoát ra khỏi   máy trưởng; Nguyễn Văn Vinh,  Lê Văn Lương,
 vòng xoáy của bão, tàu phải cưỡi lên đầu sóng. Tôi   thợ máy; Hiệp Rỗ, báo vụ 1; Bùi Văn Tư, báo vụ 2;
 báo cáo với thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng ý ấy.   Nguyễn Văn Tạo, thủy thủ trưởng; Lê Công  Ở,
 Vậy là hai thầy trò cứ điều khiển tàu gối lên đầu   Nguyễn Văn Thuận, Đinh Công Sự, Lê Văn Mùi,
 sóng mà đi. Tàu trọng tải 100 tấn, chỉ 20 tấn củi   Nguyễn Văn Hạc, Lưu Đình Lừng, thủy thủ; Bùi
 đước chất lên, không đủ đằm, nên càng lắc, càng   Khắc Thông, y tá. Mỗi người được trang bị ba bộ
 chòng chành. Sóng hất tàu lên  cao rồi  đột ngột   quần áo gồm com lê, quần áo bà ba và quần áo
 dìm sâu xuống, kêu răng rắc, như thể sắp gẫy...   xanh kiểu công  nhân.  Đây là  chuyến  đi khá dài
 Giữa trùng khơi mênh mông, con tàu chẳng khác   ngày, đi xa bờ, việc xác định vị  trí tàu phải dựa
 chiếc lá tre nhỏ bé. Có lúc chúng tôi tưởng tàu bị   vào mặt trăng, mặt trời và các vì sao... Chuyến đi
 lật, hoặc va vào đá ngầm quanh đảo, và thú thật,   thành công của tàu 42 giai đoạn đó được Bộ Chính
 đã thoáng nghĩ  đến cái chết... Nhưng mọi sự rồi   trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh Hải quân
 cũng qua. Sau hơn sáu mươi giờ đồng hồ không ăn   đánh giá rất cao. Các mốc thời gian tháng 3 năm
 không ngủ chống chọi, vật lộn với sóng dữ, chúng   1966, tháng 12 năm  1966, tháng 8 năm 1969,
 tôi  đưa  được tàu về căn cứ của  Đoàn  ở  đảo Hải   tháng 12 năm 1969, rồi tháng 8 năm 1970, tháng 10
 Nam. Tiếc là, vì không  được  ăn uống trong ba   năm 1970,... tàu 42 tiếp tục chở vũ khí lên đường
 ngày đó, con rái cá không chịu đựng nổi, đã từ giã   và đều hoàn thành nhiệm vụ một các xuất sắc...
 chúng tôi. Tiếc vô cùng!    Thượng tá Lưu  Đình Lừng vốn là thủy thủ
 Anh Vũ Trung Tính kể tiếp:   trên tàu 42, kể:
 - Trong  tất cả các chuyến tôi tham gia, thì   - Tháng 10, tàu 42  được cải dạng xong. Tàu
 chuyến đi mở đường sau “sự kiện Vũng Rô” năm   sơn màu ngọc bích trông giống như một chiếc tàu
 1965 là đáng nhớ nhất, và có ý nghĩa nhất. Sau ba   cá của các nước khu vực Đông Nam Á. Đầu tháng,
 tháng chuẩn bị về nhiều mặt, trong  đó có  việc   được lệnh xuống hàng. Hàng lấy  ở cầu  Đá Bạc
 củng cố lại nhân sự trên tàu, chúng tôi được lệnh   (Hải Phòng).  Đêm 15 tháng 10  năm 1965, tàu
 lên đường. Tôi nhớ chuyến đi đó, trên tàu có các   xuất phát do thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng và
 thành viên: Anh Nguyễn Văn Cứng, thuyền   chính trị viên Trần Ngọc  Ẩn chỉ huy. Dịp này
 trưởng; Trần Ngọc Ẩn, chính trị viên; Nguyễn Văn   đang thời kỳ gió mùa Đông Bắc. Những con sóng
 Thanh, thuyền phó; tôi, Vũ Trung Tính, hàng hải   chồm cao và gió thổi hun hút. Con tàu chao lắc
 số 1; Lê Thái Sơn, hàng hải số 2; Thôi Văn Nam,   như đưa võng. Nhiều ngày chống chọi với sóng gió,


    125          126
   123   124   125   126   127   128   129   130   131   132   133