Page 373 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 373

Dù bôn ba khắp thế giới, nhưng có thể nói, Trung Quốc là một trong số ít
                      quốc gia mà Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh có nhiều khoảng thời gian dài hoạt
                      động cách mạng. Cụ thể có thể kể đến những lần Người hoạt động và bị chính
                      quyền Quốc dân Đảng giam giữ ở Trung Quốc. Lần đầu Người đến Quảng Châu,
                      Trung  Quốc  nǎm  1924  và  ở  đó  đến  năm  1927.  Trong  khoảng  thời  gian  này,

                      Người đã nói được tiếng Trung Quốc bởi Người sang đây theo sự phân công của
                      Quốc tế Cộng sản với tư cách là phiên dịch cho cố vấn người Liên Xô - Mikhail
                      Brodin với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lần thứ hai Người đến Trung Quốc là
                      cuối nǎm 1938, đến đầu nǎm 1941, Người từ Liên Xô qua Trung Quốc trở về
                      nước.  Lần  thứ  ba,  từ  tháng  8/1942  đến  tháng  9/1943,  Hồ  Chí  Minh  bị  chính
                      quyền phản động Quốc dân Đảng giam giữ tại Quảng Tây, thời gian này Người
                      đã viết Ngục trung Nhật ký - thể hiện một trình độ uyên thâm về ngôn ngữ Hán.
                      Như vậy có thể thấy, quá trình hoạt động cách mạng chủ yếu ở Quảng Châu,
                      Trung Quốc là khoảng thời gian các kỹ năng ngôn ngữ Trung Quốc của Hồ Chí
                      Minh không ngừng hoàn thiện và đạt đến trình độ nhuần nhuyễn như là  một
                      ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai. Bởi vì khi hoạt động cách mạng tại đây, Người đã dùng
                      tiếng  Trung  Quốc để giao tiếp, phát  biểu, giảng  dạy  lý  luận,  viết báo,  biên -
                      phiên dịch các văn bản tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh sang tiếng Trung Quốc
                      và ngược lại. Người đã hóa thân thành người Trung Quốc bản địa với tên gọi là
                      Lý  Thụy  để  tạo  điều  kiện thuận lợi  cho quá  trình hoạt động  cách  mạng,  xây
                      dựng cơ sở cho các tổ chức chính trị của người Việt Nam.
                            Một điều đặc biệt nữa đó là bằng vốn tri thức văn hóa phương Đông sâu sắc
                      của mình cùng với ngôn ngữ tiếng Trung, Hồ Chí Minh đã tạo lập và là người
                      đặt nền móng xây dựng nên mối quan hệ hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước
                      và Nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc trong suốt hơn 90 năm qua. Gần
                      như trong phần lớn cuộc đời mình, ngoài tiếng Việt (ngôn ngữ mẹ đẻ) thì tiếng

                      Trung  Quốc  và  chữ  Hán  được  Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  sử  dụng  nhiều  để  nói
                      chuyện  với  nhân  dân  Trung  Quốc,  tiếp  đón  và  nói  chuyện  với  nhiều  đoàn
                      chuyên gia và các phái đoàn của Trung Quốc sang thăm Việt Nam.

                            1.2. Hồ Chí Minh với tiếng Pháp và văn hóa châu Âu

                            Tiếng Pháp có thể coi là ngoại ngữ đầu tiên Hồ Chí Minh học và sử dụng
                      trên cả hai phương diện là chữ viết và giao tiếp. Trước đó, Người học chữ Hán
                      chủ yếu để đọc, viết mà chưa được học để giao tiếp. Như nhiều đứa trẻ cùng thời
                      lúc bấy giờ, cậu bé Nguyễn Tất Thành được học tiếng Pháp như là một ngôn
                      ngữ bắt buộc trong nhà trường bởi chính sách đô hộ của chính quyền bảo hộ
                      thực dân Pháp ở Trung kỳ. Quá trình này cho phép Người có thể nghe, nói, đọc
                      và viết tiếng Pháp ở mức độ thông thường chứ chưa đủ để đạt được trình độ
                      thông thạo, đặc biệt là với hệ thống văn bản của Pháp. Vì những lẽ đó mà chàng
                      thanh niên Văn Ba-Nguyễn Tất Thành, phụ bếp trên con tàu Amiral Latouche




                                                               371
   368   369   370   371   372   373   374   375   376   377   378