Page 506 - http://tvs.nlv.vn/trienlam
P. 506
Thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng văn hóa đã tạo cơ sở để Hồ Chí Minh
đi đến khẳng định, phải luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo của nhân dân. Tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân nghĩa là
tôn trọng nhu cầu tâm linh của nhân dân và đảm bảo quyền dân chủ trong đời
sống tinh thần xã hội. Quan điểm này được thể hiện nhất quán cả trong lý luận
cũng như trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Dù với tư cách Chủ tịch
Đảng, người đứng đầu Chính phủ, hay với tư cách là một công dân, Hồ Chí
Minh vẫn luôn luôn thể hiện là một con người mẫu mực trong việc tôn trọng tự
do tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng nhân dân; không một ai có thể tìm thấy ở
Hồ Chí Minh dù là một biểu hiện rất nhỏ của sự bài xích, chế giễu với bất kỳ
một tôn giáo nào.
Quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo được ghi nhận trong nhiều
văn bản do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký hoặc trong những lời phát biểu của Người.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, Hồ
Chí Minh phát biểu: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng
bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố:
1
TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết” . Năm 1946, trong Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực
tiếp chỉ đạo biên soạn, đã xác nhận: “mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng”.
Đến ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề
tôn giáo. Nội dung Sắc lệnh thể hiện khá toàn diện quan điểm của Hồ Chí Minh
về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, biểu hiện qua những điểm cơ
bản:Chính phủ tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mọi
người dân đều có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào; chức sắc
được tự do giảng đạo tại các cơ sở tôn giáo; tín đồ và chức sắc tôn giáo được
hưởng mọi quyền lợi của người công dân, đồng thời cũng phải thực hiện mọi
nghĩa vụ của người công dân; các tôn giáo được xuất bản và phát hành những ấn
phẩm tôn giáo, được mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo
của mình; các cơ sở thờ tự của tôn giáo được luật pháp bảo hộ.
Hai là, bản chất của tôn giáo nói chung là hướng thiện và nhân bản.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của
tôn giáo, Hồ Chí Minh cho rằng, cái chung trong giáo lý của các tôn giáo chân
chính là đều phản ánh khát vọng về một cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc
của quần chúng nhân dân bị áp bức bóc lột; hướng tín đồ và nhân loại tới bình
đẳng, tự do, bác ái; khuyên răn con người làm điều thiện, loại trừ cái ác. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ
__________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 8.
504