Page 145 - http://tvs.vsl.vn/trienlam
P. 145
cho mỗi cư dân của công xã, đất đồi, đất bãi, sông thôn chính là động lực để giúp cho triều đình có
ngòi, ao hồ thuộc quyền sử dụng chung của nhân thể "tận dân vi binh" đánh bại quân xâm lược.
dân trong làng. Trên cơ sở đó, nhiều quan hệ tập Công xã nông thôn ở Việt Nam không chỉ là một
thể từ thời dân chủ nguyên thủy vẫn được bảo lưu tất yếu mà còn là một giải pháp hay nhất để tồn
trong các cộng đồng làng xóm Việt Nam và đó là tại. Kết quả, công xã nông thôn đã tồn tại ở nước
những phong tục tốt đẹp của nông thôn ta. Nhiều ta hàng nghìn năm. Điều này đóng một vai trò
hương ước ở các làng đều có những quy định cụ không nhỏ trong việc tạo nên các quy tắc ứng xử.
thể về việc tương trợ, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn, Người Việt xưa có câu "Phi thương bất phú".
khó khăn. Người dân Việt vừa là dân của một Một nền kinh tế tự túc không bao giờ cho phép
nước đồng thời lại thuộc về một làng; họ vừa phải kinh tế phát triển. Muốn phát triển phải buôn
theo phép nước vừa phải theo lệ làng. Cá nhân bán nhưng buôn bán luôn luôn phá vỡ sự ổn định.
phải sống ở làng. Dù ở làng có khó đến đâu vẫn dễ Thương nghiệp là một ngành đầy sóng gió và gây
chịu hơn sang làng khác sống. Vì khi ấy họ là dân sóng gió; nó đòi hỏi sự điều chỉnh không ngừng để
ngụ cư, bị coi rẻ và không có quyền lợi gì cả. Sống đạt tới sự hài hoà. Nếu thương nghiệp phát triển
ở làng thì phải theo trật tự tôn ti. Có thể thấy ở sẽ phá vỡ hàng rào công xã nên công xã luôn
đây vai trò của Nho giáo với các quy định về phép chống lại nó. Do vậy chợ nông thôn thường nghèo
xử thế giữ một vai trò rất lớn. Mặt khác, công nàn, chỉ là nơi người ta bán một số sản phẩm
điền và công thổ khiến mọi người trong làng gắn thừa. Thế kỷ XVI, Hà Nội lúc ấy thường là các
bó với nhau. Ở các làng quê người ta thường duy phường chứ không có phố như hiện nay. Các
tình chứ không duy lý. Đó cũng là một đặc điểm phường ấy là các phường sản xuất thủ công. Một
quy định cách ứng xử của người Việt. minh chứng rõ ràng là ở nhiều phố Hà Nội hiện
Với cách tự quản theo kiểu tôn ti trật tự ấy, nay có thờ các tổ nghề và Thành hoàng (gốc ở các
thôn xã không thể là cơ sở cho sự phát triển kinh địa phương, do người dân ra đây lập nghiệp và
tế. Muốn phát triển, các nước châu Âu đã phải xây đền, đình thờ cúng). Người một phố Hà Nội
chuyển từ kinh tế phong kiến sang kinh tế thị lúc ấy thường là dân cùng làng, họ bán những sản
trường. Nói đến thị trường là nói đến sự biến phẩm của làng. Thành thị lúc ấy bị công xã hóa,
động, sửa đổi liên tục. Điều này là một nguy cơ chỉ là cái đuôi của nông thôn chứ không điều
mà vua chúa rất sợ. Mặt khác, Việt Nam luôn khiển được nông thôn bằng kinh tế hàng hóa. Có
luôn phải chống nạn ngoại xâm. Các công xã nông thể nói, xã hội Việt Nam trước đây chủ yếu vẫn là
143 144